ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – SỰ KIỆN TRỌNG ĐẠI CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC
31/01/2021 8:27:27 SA
Lời bài hát “Đảng là cuộc sống của tôi, mãi mãi đi theo người. Từ thuở còn thơ đời tôi chưa quen sóng gió, Đảng đã cho tôi lẽ sống niềm tin, giữa biển khơi biết đâu là bờ, bầu trời xanh chưa thấy bao giờ…” của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã nói hộ tấm lòng, niềm tin, tình yêu của triệu triệu người con đất Việt. Có lẽ không có dân tộc nào trên thế giới khi nói đến Đảng, nhân dân lại có một sự trân trọng, tự hào, yêu quý như dân tộc Việt Nam.

Hai chữ “Đảng ta” thật thiêng liêng, gắn sâu trong tâm thức của các thế hệ người Việt trong suốt 91 năm qua. Điều đó như một sự tất yếu, vì Đảng là do Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu sáng lập. Đảng ra đời là sự kiện lịch sử trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường xây dựng và phát triển của dân tộc ta.
        Lần theo dòng chảy của lịch sử dân tộc, trước khi Đảng ra đời, con đường đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
       Ngày 5/6/1911, người thanh niên trẻ tuổi yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua quá trình bôn ba đến nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng trên thế giới nhưng chỉ đến khi được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo, Người mới khẳng định: “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau khi tìm thấy chân lý cứu nước, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục nghiên cứu, học tập lý luận để hoàn thiện những quan điểm về chiến lược và sách lược cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đồng thời tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Chủ nghĩa Mác – Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước. Đến năm 1929, đã phát triển và kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ rộng lớn, yêu cầu cần phải thành lập một chính đảng để đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành lấy độc lập, tự do. Giữa tháng 5 năm 1929, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tiến hành đại hội tại Hương Cảng nhưng không nhất trí thành lập Đảng cộng sản, vì thế các đoàn đại biểu có tư tưởng cấp tiến sau khi trở về nước đã ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp yêu nước hưởng ứng chủ trương thành lập Đảng. Chỉ trong vòng không đầy 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9/1929) đã có ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập. Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản là một xu thế phát triển khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta. Tuy vậy, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc với chức trách phái viên của Quốc tế cộng sản, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản đã diễn ra từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị nhất trí thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng...
         Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đó là một tất yếu lịch sử nhằm đáp ứng những đòi hỏi của cách mạng Việt Nam, là thành quả của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp quyết liệt của nhân dân Việt Nam, là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử trên con đường đấu tranh quyết liệt ở Việt Nam trong mấy thập kỉ đầu của thế kỷ XX, là kết quả của quá trình lựa chọn và chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin, với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong thời đại mới.Thực tế đó đã được chứng minh, trước ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong trào đấu tranh nổ ra của nhiều giai tầng trong xã hội, với nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau.Tất cả các giai cấp, tầng lớp đều mong muốn bước lên vũ đài chính trị để nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, thế nhưng đã không được lịch sử chấp nhận bởi hoặc là không đủ vai trò uy tín để kêu gọi và tập hợp lực lượng trong quần chúng, hoặc là còn nặng về “cốt cách phong kiến”, hoặc không có đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể, sai lầm về phương pháp làm cách mạng. Trong khi đó, với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá rộng rãi vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và đang khẳng định được sức mạnh của mình. Nếu như những năm trước chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân mạng nặng tính tự phát, thể hiện sự non nớt trong các hình thức đấu tranh, thì những năm 1919 – 1925 đã có bước phát triển hơn với “những cuộc bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn”, bắt đầu chuyển dần sang tự giác. Đặc biệt sau phong trào “vô sản hóa” năm 1928, với việc nhiều cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sinh hoạt, cùng lao động với công nhân để tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Các cuộc đấu tranh của công nhân đã mang tính chất chính trị rõ rệt và diễn ra đều khắp trên phạm vi cả nước. Trong mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, xí nghiệp, các ngành, các địa phương. Phong trào công nhân đã đạt đến trình độ “tự giác”, thuần thục hơn về đấu tranh chính trị và trở thành “hạt nhân” lôi cuốn, thu hút phong trào yêu nước và có thể nói, nó quyết định phong trào dân tộc đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam. Sự phân liệt của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thành 3 tổ chức cộng sản năm 1929 là một điều tất yếu và cuối cùng lịch sử đã lựa chọn để đi đến thống nhất thành lập ra Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930. Để rồi từ đây, cách mạng Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, với lực lượng tiên phong là giai cấp công nhân. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 91 năm qua.
         Một trong những câu hỏi lớn của cách mạng nước ta vào những năm đầu thế kỷ XX là ai sẽ là lực lượng lãnh đạo cách mạng nước ta khi mà phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của giai cấp địa chủ đã không còn sức hút, ngọn cờ “Quân chủ” đã lỗi thời, lạc hậu. Khởi nghĩa Yên Thế của tầng lớp nông dân thì nặng về vũ trang và chỉ dựa vào tài thao lược của một lãnh tụ, khi lãnh tụ mất, phong trào cũng vì thế mà tan rã. Ngọn cờ Đông Du có phương pháp đấu tranh đúng đắn là dùng bạo động nhưng lại sai lầm khi không xác định được bạn và thù, lại không có biện pháp cụ thể phù hợp để thực hiện bạo động. Ngọn cờ Duy Tân thì nặng về phương pháp đấu tranh cải lương, không tưởng. Việt Nam Quốc dân đảng của giai cấp tư sản không có đường lối cụ thể, bồng bột và hăng hái nhất thời để rồi chấm dứt sự tồn tại của mình sau khởi nghĩa Yên Bái. Sự thất bại đó là vì không có đường lối đấu tranh phù hợp với xu thế của thời đại, không có giai cấp lãnh đạo giữ vị trí là giai cấp trung tâm. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã tạo ra biến cố lịch sử trên thế giới, cách mạng thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, các dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo đường lối của cách mạng vô sản và theo đó, giai cấp cách mạng nhất, giữ vai trò tiên phong, có sứ mệnh lịch sử phải là giai cấp vô sản. Chính vì thế trong Cương lĩnh giải phóng dân tộc đã khẳng định rõ ràng giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng”. Như vậy, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam không những đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lực lượng lãnh đạo cách mạng nước ta, mà còn khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam. Khẳng định sự lớn mạnh của mình không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng, về quy mô ngày càng lớn, về tính tự giác, tính chính trị của các phong trào ngày càng được thể hiện rõ nét hơn. Đúng như Bác Hồ đã nhận xét: “Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Và kể từ đây, ngọn cờ giải phóng dân tộc Việt Nam được lịch sử trao cho giai cấp công nhân và giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp dân tộc, nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc, giai cấp công nhân chính thức bước lên vũ đài chính trị với tư cách là lực lượng chính trị độc lập. Thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc và nhân dân vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến vinh quang.
        Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, của điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của dân tộc Việt Nam, luôn “giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi”. Đó là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam. Đó là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Cách mạng tháng Tám năm 1945, phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ Pháp – Nhật, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người dân độc lập, tự do, làm chủ nước nhà. Đây là bước phát triển nhảy vọt đầu tiên trong vai trò lãnh đạo của Đảng ta, của cách mạng Việt Nam, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của lịch sử dân tộc: kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh cờ đỏ sao vàng tung bay trên trận địa Điện Biên Phủ mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một biểu tượng cho tinh thần anh dũng quật cường của dân tộc ta,“đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỷ XX”, kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ, chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta, bảo vệ vững chắc và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám, mở ra giai đoạn mới, cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trong đại thắng mùa xuân năm 1975, non sông gấm vóc do tổ tiên để lại được thu về một mối, cả nước cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước ngày càng phát triển, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
        Với những trang sử vàng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong suốt 91 năm qua, nhân dân ta đều có quyền tự hào với một niềm tin mãnh liệt: Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đem lại những mùa Xuân cho đất nước, sức Xuân của lòng người. Một mùa Xuân mới lại về! Chúng ta vui mừng chào đón sự kiện chính trị cực kỳ quan trọng của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hướng tới kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với cả nước trong suốt 65 năm qua từ Chi bộ đến Đảng bộ Khu di tích Kim Liên đã thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nâng cao nhận thức, tinh thần, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên. Thường xuyên lãnh đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và xây dựng cơ quan, xây dựng Đảng bộ và các tổ chức đoàn thể chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt các đợt học tập, quán triệt, triển khai các nghị quyết, chỉ thị và các văn bản chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, đảng viên. Phát huy tốt mối đoàn kết thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, đóng góp tích cực vào sự nghiệp “Bảo tồn, tôn tạo và phát huy tích cực những giá trị di sản văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quê hương” xứng tầm với vị thế Di tích quốc gia đặc biệt.
 

                                                          Phan Thủy
 Phòng tuyên truyền giáo dục
        Tài liệu tham khảo:
  1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì CNXH, tiến lên giành những thắng lợi mới. NXB Sự Thật, 1976.
    Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 3. NXB Chính trị quốc gia. HN.1995
    Văn kiện Đảng 1930 – 1940 . Tập 1. BNCLSĐTƯ. HN. 1977
    Đại cương Lịch sử Việt Nam. Tập 2. NXB GD. HN. 2000
    Tư liệu tham khảo trên các trang thông tin điện tử, báo mạng…
 
 
 
 
 
 
 
 

Thông tin tham quan

Liên kết website