VỀ NƯỚC LÀ MỤC TIÊU LỚN NHẤT CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG SUỐT CHẶNG ĐƯỜNG HOẠT ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI
25/01/2021 3:19:15 CH
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/01/1941 - 28/01/2021), Khu di tích Kim Liên đăng toàn văn bài tham luận tại hội thảo khoa học thực tiễn diễn ra sáng nay 25/01/2021, tại Ban quản lý các di tích Quốc gia đặc biệt tỉnh Cao Bằng.

Bác Hồ của chúng ta đã trải qua muôn dặm đường dài để tìm đường cứu nước, cứu dân. Trên hành trình ấy, Người tích cực hoạt động, chuẩn bị kế hoạch, gây dựng tổ chức, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, vạch rõ đường lối đoàn kết mọi tầng lớp yêu nước, vận dụng chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa yêu nước, lấy đó làm động lực cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở nhưng Người đã vượt qua mọi khó khăn thử thách để đến năm 1941 trở về nước sau 30 năm xa cách.
“Về nước” đó là mục tiêu lớn nhất, Bác luôn đặt ra trong suốt chặng đường mở đầu từ 1924, một chặng đường đầy phức tạp, có thuận lợi lớn mà cũng không ít khó khăn trắc trở. Ở đây, Bác đã vận dụng nhiều nghị lực và mưu trí, dựa vào quần chúng Việt kiều, sử dụng cán bộ cốt cán mà Bác đã đào tạo, tranh thủ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc để khai thác những điều kiện thuận lợi, vượt qua những khó khăn, nguy hiểm, ứng phó với âm mưu thâm độc của thế lực phản động…Bác nhớ lại hồi năm 1922 khi còn ở Pari Bác đã nhận được thư của Phan Chu Trinh từ Mac Xây (Pháp) gửi tới. Ông Phan viết: “Tôi không thích cái phương pháp, “Ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời nhập nội” (nằm ở nước ngoài tập hợp nhân tài rồi đợi thời cơ thuận lợi về nước hoạt động) của Anh, nhưng tôi không khinh thị mà còn khâm phục Anh nữa là khác”. Rồi Phan Chu Trinh bàn giải “Tôi khuyên Anh nên thu xếp mà về nước khích động nhân dân, hô hào ba kỳ đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế… làm như thế tôi tin rằng không bao lâu cái chủ nghĩa Mã Khắc Tư anh tôn thờ sẽ thâm căn cố đế trong đám dân thường và chí sĩ” (trang 23- Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, NXB Thanh niên). Mỉm cười suy nghĩ: Lời khuyên của bác Phan thật đúng với ý định thầm kín của ta - Người đi tìm đường cứu nước thì nhất định phải có ngày tìm đường về nước để lo toan việc giải phóng đồng bào… “Sống ở Mạc tư khoa được gần gũi các đồng chí trong Quốc tế cộng sản nghe, biết nhiều phong trào đấu tranh ở các nước. Ta đã nắm được học thuyết cách mạng, tìm hiểu được phương pháp cách mạng… Đã đến lúc ta phải tìm đường về nước”.
Nhưng để thực hiện khát vọng ấy, Người đã phải trải qua một chặng đường dài đầy gian lao, thách thức. Đã nhiều lần Người tìm đường trở về Tổ quốc nhưng đều không thể thực hiện. Đó là khi Người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc (những năm 1924 – 1927) và sau đó ở Thái Lan (những năm 1927-1929) - thời kỳ mà thực dân Pháp tìm mọi cách để “tiêu diệt” những người cách mạng ở Đông Dương, đặc biệt là sự lùng sục rất gắt gao nhằm tìm ra tung tích của Nguyễn Ái Quốc… nên mọi “cố gắng đi về An Nam” của Người đều phải “quay trở lại” bởi sự “canh phòng của mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật” (Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930, ở mục "C. Đi về An Nam", Bác Hồ viết: "Đã hai lần tôi cố gắng đi về An Nam nhưng phải quay trở lại. Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật, đặc biệt từ khi xảy ra vụ An Nam "Quốc dân Đảng”. (Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tr.12). Năm 1938 sau khi kết thúc khóa học tại trường Quốc tế Lê Nin, Nguyễn Ái Quốc nóng lòng trở về tổ quốc, năm lấy thời cơ, thúc đẩy phong trào Người đã vạch ra nhiều dự án kế hoạch để lên đường nhưng chưa được Quốc tế cộng sản chấp nhận nên chuyến đi của Người phải hoãn lại.
Phải mãi tới lần thứ ba, việc tìm đường về nước của Bác Hồ mới từng bước được thực hiện. Đó là vào đầu năm 1940, khi về hoạt động tại Côn Minh (Trung Quốc), được sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc, Người đã bắt được mối liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng ta. Trong thời gian ở đây, Người thường xuyên chăm lo bồi dưỡng lý luận, nâng cao nhận thức cho cán bộ và hướng các hoạt động của phong trào kiều bào vào việc “đánh Tây”, “đuổi Nhật”. Người đã dành thời gian đi thăm một số cơ sở cách mạng dọc tuyến đường xe lửa Côn Minh - Hà Khẩu để tìm hiểu tình hình, khảo sát, tìm đường về nước. Bác Hồ gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ở Côn Minh từ Việt Nam sang. Sau ngày 20/6/1940 được tin Paris (thủ đô của nước Pháp) bị quân Đức chiếm. Bác triệu tập cuộc họp Ban hải ngoại của Đảng, phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.
Với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ thiên tài, Người nhận thấy Cao Bằng là nơi có nhiều yếu tố thuận lợi để xây dựng căn cứ địa cách mạng của cả nước. Địa thế Cao Bằng hiểm trở, núi non hùng vĩ, quần chúng nhân dân được giác ngộ, kiên cường đấu tranh, trung thành với Đảng với cách mạng, là địa bàn mà Thực dân Pháp khó kiểm soát. Có thể nói là vùng đất “Thiên thời địa lợi nhân hòa”. Có núi có sông, có đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc thuận lợi cho giao thông liên lạc. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất ở đây là “Cao Bằng có phong trào tốt từ trước”. Từ tháng 10 năm 1940, khi còn ở nước ngoài đang trên đường trở về Tổ quốc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được”. Với nhận định đúng đắn đó, ngày 28/1/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua mốc 108, biên giới Việt - Trung về đến Pác Bó. Lòng bồi hồi xúc động, khi đặt bước chân đầu tiên lên giải đất quê hương. Phút giây đó sau này Người kể lại: “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động”.
Những ngày đầu về nước, Bác ở nhà ông Lý Quốc Súng (Máy Lỳ) ở thôn Pác Bó sau đó Người chọn hang Cốc Bó (đầu nguồn) thuộc thôn Pác Bó xã Trường Hà làm nơi sống và làm việc, cũng tại đây Người lấy bí danh là Già Thu. Từ ngày 10-19/5/1941 Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội Nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Hội Nghị nêu rõ: Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Hội Nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất mang tên Việt Nam độc lập Đồng minh (Việt Minh) nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn. Thông qua chương trình Việt Minh gồm 6 phần do Nguyễn Ái Quốc chủ trì soạn thảo, bầu Ban  chấp hành Trung ương, Ban thường vụ, cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Trước, trong và sau thời gian họp Hội Nghị Trung Ương tháng 5/1941 Nguyễn Ái Quốc liên tục mở lớp huấn luyện cán bộ, Người xác định đào tạo cán bộ trong lúc này càng trở nên cấp thiết vì nó phục vụ trực tiếp cho cách mạng tháng tám năm 1945 sẽ nổ ra mà Người dự đoán ngay từ năm 1941. Theo Người muốn cho cách mạng thành công vào năm 1945 công việc trước hết là phải gấp rút đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị và quân sự vững vàng. Đây không chỉ là công việc trước mắt mà còn là công việc lâu dài của cách mạng nước ta. Ngày 6/6/1941, Bác viết thư “Kính cáo đồng bào” bằng chữ Việt và Hán, ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi toàn thể nhân dân, kêu gọi toàn dân đoàn kết, “cứu nước là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: Người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mà giành tự do độc lập dẫu phải hi sinh tính mệnh cũng không nề”. Người chỉ đạo chọn một số thanh niên Cao Bằng đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu, Trung Quốc, mỗi học viên đều có một tên mới, lý lịch mới. Người sáng lập báo Việt Nam độc lập, viết nhiều bài theo thể lục bát hoặc văn vần cho dễ nhớ, dễ đọc, cổ vũ thanh niên học quân sự, ca ngợi “dân cày”, đề cao phụ nữ, lôi kéo thiếu nhi, khuyên đồng bào đọc báo Việt Nam độc lập thống nhất hành động sẵn sàng cứu nước. Tháng 11/1941, Người chỉ đạo thành lập đội tự vệ vũ trang cách mạng đầu tiên ở Cao Bằng, viết cuốn “Cách đánh du kích” gồm 13 chương, soạn 10 điều kỷ luật và những nguyên tắc sinh hoạt của Đội, làm tài liệu mở lớp chính trị - quân sự, trực tiếp huấn luyện cho các đội  viên. Không chỉ trực tiếp tham gia giảng bài tại các lớp học, Người còn biên soạn một số tài liệu quan trọng phục vụ cho công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ như: “Lịch sử nước ta, kinh nghiệm du kích Nga, kinh nghiệm du kích Tàu…”.
Như vậy, ta thấy Bác Hồ về nước mùa xuân năm 1941 là một sự kiện đặc biệt, khẳng định tầm nhìn xa trông rộng của Người, là tiền đề vững chắc để toàn dân tộc tiến hành cuộc Cách mạng tháng tám thành công và tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Có thể nói Cao Bằng là nơi hiện thực hóa những tư tưởng chiến lược về cách mạng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ mùa xuân ấy, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam do Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo đã chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu, làm tiền đề để đến mùa xuân năm 1975 hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước thống nhất hai miền Bắc – Nam và đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Xuân Tân Sửu 2021 này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm tròn 80 mùa Xuân ngày Bác Hồ về nước (28/1/1941 - 28/1/2021). Càng nhớ Bác Hồ, chúng ta càng nhớ những lời dạy của Người và lớp lớp cán bộ ngày ấy được Người bồi dưỡng, huấn luyện trở thành những người đã đưa đường lối chính sách của Đảng, tư tưởng đạo đức Bác Hồ đến với quần chúng, tổ chức, giáo dục và đưa họ ra đấu tranh từ thấp đến cao, tiến dần từng bước đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền, xây đời sống mới… Đó chính là bài học từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và của cả dân tộc để mỗi người chúng ta hôm nay thực hiện tốt hơn việc Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, tạo thành nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn dân cùng thi đua, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, xứng đáng với lòng mong ước của Bác Hồ kính yêu: Xây dựng một mước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

KHU DI TÍCH KIM LIÊN
 

Thông tin tham quan

Liên kết website