SỰ QUAN TÂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
27/07/2021 8:25:49 SA

 Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành tình cảm đặc biệt đối với sự hy sinh cao cả của các Anh hùng liệt sỹ; các thương, bệnh binh và gia đình có công với đất nước. Người luôn có sự quan tâm sâu sắc, sự đồng cảm và viết thư thăm hỏi kịp thời, chia sẻ những nỗi đau mà các thương bệnh binh và đình liệt sỹ phải gánh chịu. Người cũng luôn có những chỉ đạo cụ thể đối với các cấp, các ngành phải có chế độ đãi ngộ đặc biệt, những chính sách giành riêng cho thương bệnh binh, các thân nhân Liệt sĩ để họ không phải chịu thiệt thòi sau những khổ đau mất mát của chiến tranh.
Người khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người đã có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta bất kể trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh, liệt sĩ, những người đã hy sinh hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời- nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Độc lập dân tộc chưa giành được bao lâu thì đất nước đã gặp muôn vàn khó khăn, nạn thù trong giặc ngoài, giặc đói giặc dốt ngày đêm hoành hành khiến cho nhà nước non trẻ rơi vào hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính phủ và nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng vượt qua những khó khăn đó.
           Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược tấn công nước ta lần thứ hai, cả nước lại cùng nhau đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Là người đứng đầu Chính phủ, mặc dù bận trăm công ngàn việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng với Trung ương Đảng đã có những chủ trương, chính sách chăm lo đến các thương binh, các gia đình liệt sỹ. Chính phủ đã ban hành chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ “ưu đãi các chiến sĩ bị thương và gia đình liệt sĩ”.
Nhằm chia sẻ với những nỗi đau của hàng triệu thân nhân liệt sỹ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người vợ và những đứa con thơ đã mãi mãi không bao giờ được gặp lại những người thân yêu nhất của gia đình mình, trong bức thư đăng trên báo Cứu quốc ngày 7/1/1946, với những tình cảm thiết tha sâu tận đáy lòng, người đã viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập, thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời kỳ kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sỹ và tôi nhận các con liệt sỹ là con nuôi của tôi”. Đây chính là nỗi lòng của người Bác, người cha có con hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
          Qua biết bao trằn trọc, trăn trở, đau đáu và ấp ủ trong lòng, tháng 6/1947 tại đồi Khau Tý, ATK Định Hoá (Thái Nguyên) Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với Chính phủ chọn một ngày trong năm là “Ngày thương binh liệt sỹ” ngày để cả nước tri ân các anh hùng liệt sỹ, các thương bệnh binh, ngày ấy là 27/7 hàng năm. Nhân dịp này, Bác đã gửi thư cho Ban thường trực của Ban Tổ chức “Ngày thương binh liệt sỹ toàn quốc” (ngày 27/7/1947). Trong thư có đoạn Bác viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang san, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ tổ tiên ta bị uy hiếp; cha mẹ, anh em, vợ con thân thích, họ hàng ta bị đe dọa; của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập; ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù; để gìn giữ đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh...Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người anh hùng ấy”. Đây là những lời tâm sự từ đáy lòng của Bác cũng là lời nhắc nhở của Người đối với chúng ta là phải biết ơn, kính trọng, chăm lo cho các gia đình thương binh, liệt sỹ những người không tiếc máu xương vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Khi hai cuộc kháng chiến diễn ra vô cùng ác liệt, biết bao chiến sỹ của ta đã hy sinh trên chiến trường, đặc biệt là chiến trường miền Nam. Xương máu của các anh đã hoá thành sông núi, khi mỗi người con ưu tú của dân tộc ngã xuống Bác cảm thấy vô cùng đau xót, như mất đi một người thân, mất đi một phần máu thịt của mình. Năm 1947, khi biết tin con trai của bác sỹ Vũ Đình Tụng hy sinh , Bác liền viết thư động viên chia sẻ với nỗi đau mất mát lớn của gia đình bác sỹ cũng là nỗi đau chung của các gia đình có con em hi sinh vì Tổ quốc. Người viết: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tình thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam....Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ”.
Mỗi khi đất nước có chiến tranh, tất cả nam thanh nữ tú đều xung phong lên đường làm nhiệm vụ đánh đuổi kẻ thù. Họ đã chiến đấu hết mình, không tiếc xương máu, có người ra đi không bao giờ trở lại bỏ lại thân xác nơi chiến trường, người thì bỏ lại một phần cơ thể trở về không lành lặn như xưa. Họ là những liệt sỹ, thương binh đã hy sinh thân mình để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong buổi lễ đặt vòng hoa ở Đài Liệt sỹ ở Ba Đình- Hà Nội ngày 31/12/1954 Bác nói: “ Các liệt sỹ hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sỹ đã được ghi sâu vào lòng toàn dân và non sông đất nước....Các liệt sỹ hy sinh nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sỹ thấm nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc đấu tranh giành hoà bình, thống nhất độc lập và dân chủ trong nước. Máu nóng của các liệt sỹ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sỹ muôn đời lưu truyền sử xanh. Một nén hương thành. Vài lời an ủi. Anh linh của các liệt sỹ bất diệt. Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm !
Truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc ta luôn được Bác khơi dậy và phát huy mọi lúc mọi nơi, Bác cũng luôn là người đi trước, tiên phong để làm gương cho mọi người. Trong chiến tranh khi đất nước lâm nguy, gặp nhiều khó khăn không có điều kiện để chăm sóc các gia đình liệt sỹ, các thương bệnh binh. Bác đã phát động toàn dân: “ Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp đồng bào bị đói. Bây giờ chống giặc ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp cho các đồng chí bị thương”. Trong khi phát động, Bác là người đăng ký đầu tiên để làm gương: “ Tôi xin xung phong gửi một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng”. Năm 1953, nhân dịp ngày 27 tháng 7, Bác đã gửi thư cho Bộ trưởng Bộ thương binh, cựu binh Bác xin gửi: “...một tháng lương của tôi và 50 cái khăn tay do đồng bào phụ nữ Thái biếu tôi, nhờ cụ chuyển cho anh em thương binh lời chào thân ái của tôi”.
Rất, rất nhiều hành động, việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện người hết sức quan tâm đến các thương bệnh binh, gia đình các liệt sỹ. Bác không muốn họ và người thân của họ chịu thiệt thòi hơn nữa. Người luôn canh cánh trong lòng phải làm sao để đền đáp công ơn thật xứng đáng cho những người đã ngã xuống, những bà mẹ mất con, người vợ mất chồng, con mất cha. Chính vì điều này,những năm cuối đời mặc dù đang ốm nằm trên giường bệnh, Người vẫn cố gắng rà soát lại bản thảo Di chúc và bổ sung thêm một số nội dung, đặc biệt trong đó có đoạn căn dặn các chính quyền các cấp về tri ân, chính sách đối với thương binh, thân nhân liệt sỹ: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi công sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. 
Đặc biệt, ngày 31/7/1969, Bác Hồ đã tặng Huy hiệu của Người cho 10 thương binh gương mẫu, tận tụy với công tác sản xuất, lập nhiều thành tích trên mặt trận mới. Đây chính là lần tặng Huy hiệu của cuối cùng của Bác cho các thương binh.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những chứng tích mà nó để lại không thể phai mờ theo năm tháng. Những vết thương trên người thương, bệnh binh mỗi lúc trái gió trở trời lại tái phát hành hạ họ biết bao đau đớn. Những người vợ liệt sỹ một mình gồng gánh nuôi con  giữa thời bình bao vất vả, khó khăn. Chính vì vậy, trong những năm qua, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, các cấp chính quyền, các đoàn thể xã hội đã có những chính sách ưu tiên và giúp đỡ những khó khăn đối với thương bệnh binh và gia đình liệt sỹ bằng rất nhiều việc làm cụ thể.
Học tập và làm theo tấm gương của Bác, cán bộ, nhân viên Khu di tích Kim Liên, là những người con vinh dự được làm việc, gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị cao đẹp, Di tích Quốc gia đặc biệt, trên chính quê hương và nơi chôn rau cắt rốn của người; hàng năm đến ngày 27/7 cũng đã tổ chức nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa: thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, xây dựng nhà tình nghĩa, nhận phụng dưỡng và chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Hoà ( xóm Mậu 1- xã Kim Liên); ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân nhiễm chất độc gia cam; giúp đỡ các gia đình thương bệnh binh...vv.
           Chi đoàn Khu di tích Kim Liên hàng năm tổ chức cho đoàn viên thanh niên tham gia cùng Huyện đoàn “Lễ thắp nến tri ân” tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ nhân ngày 27/7 tại Nghĩa trang Liệt sỹ huyện. Thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình thương bệnh binh trong cơ quan. Ngoài ra,  năm 2020 Chi đoàn đã tổ chức thành công “Bữa cơm yêu thương” cho hai gia đình thương binh là bố đẻ của cán bộ trong cơ quan. Năm nay, do tình hình dịch bệnh Covid-19 không thể tổ chức “Bữa cơm yêu thương” như kế hoạch nên Chi đoàn đã giành hai phần quà để tặng hai gia đình thương binh ở xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn. 
Những món quà và việc làm tuy nhỏ nhưng đã thể hiện được đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc ta. Việc chăm sóc và giúp đỡ các gia đình thương binh và gia đình liệt sỹ đã góp phần động viên, an ủi với những đau thương mất mát mà họ phải gánh chịu do chiến tranh để lại. Sự quan tâm giúp đỡ, động viên của toàn xã hội là nguồn cổ vũ, động viên các thương bệnh binh có động lực gặt hái được thành thành tích hơn trong lao động sản xuất đúng như Bác thường nói: “Các chú tàn nhưng không phế”. Học tập và noi gương Bác, mỗi chúng ta phải có thật nhiều, thật nhiều việc làm, hành động cụ thể hơn nữa để tri ân sâu sắc các Liệt sỹ, thương, bệnh binh và những thân nhân của họ./.

                                                      Phạm Thanh Hương
 

Thông tin tham quan

Liên kết website