BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI THỜI ĐIỂM NGUYỄN TẤT THÀNH – HỒ CHÍ MINH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
31/05/2021 11:13:43 SA

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, sự kiện ngày 5/6/1911, Văn Ba – Nguyễn Tất Thành lên tàu Latouche - Tréville rời bến cảng nhà Rồng đã trở thành dấu ấn mở đầu trong hành trình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Hành trình ấy đã đi vào lịch sử như sự khởi đầu cho tương lai tươi sáng của dân tộc. Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người trở về tổ quốc nhen ngọn lửa đoàn kết toàn dân phát động thời kỳ mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cùng nhân dân, Người đã làm nên một cuộc cách mạng “long trời lở đất”- Cách mạng tháng Tám 1945, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử cách mạng Việt nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
 Việc nghiên cứu sự kiện ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã được tìm hiểu nghiên cứu với nhiều góc cạnh khác nhau. Đối với cá nhân của người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau này là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh quyết định này là sự tổng hợp của quá trình khảo sát, phân tích, tổng kết lịch sử đúng đắn, lý giải khoa học bối cảnh trong nước và thế giới tác động đến cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, để lựa chọn đúng hướng đi và xác định con đường cứu nước thành công. Đối với tiến trình giải phóng dân tộc, đây là sự kiện mang nội dung cách mạng và ý nghĩa lịch sử lớn lao: là mốc kết thúc một quá trình tổng hợp những yếu tố chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử để mở đầu cho hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh hồi đầu thế kỷ XX. Ý nghĩa và tầm vóc lớn lao của nó mãi mãi được ghi nhận và phát huy trong suốt hành trình cứu nước của Người trước đây và trên con đường đổi mới đất nước hiện nay.
 Trong khuôn khổ của bài viết, tôi không trình bày lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và chắc rằng không cần thiết bởi đó là bối cảnh chung có thể tác động hoặc không tác động tới con đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Vì vậy, hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế thời điểm Văn Ba - Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mà chúng tôi muốn chỉ ra là những sự kiện mà Người nhận thức đã tác động đến sự hình thành quyết tâm và hướng xuất dương tìm đường cứu nước của Người, trước hết phải kể đến những sự kiện mang ý nghĩa thời đại, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
1. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và quyết định lịch sử ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh
Nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Với điều ước Patơnốt năm 1884, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Mặc dầu vậy ngay từ tiếng súng xâm lược đầu tiên của thực dân, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta liên tục nổ ra khắp cả nước nhưng đều thất bại nặng nề. Sang đầu thế kỷ XX, sau căn bản hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa thực dân tiến hành “ khai thác thuộc địa”, thực chất là vơ vét sức người sức của của thuộc địa đưa về chính quốc. Kinh tế Việt Nam bị tước quyền phát triển độc lập, nhân dân bị bần cùng hóa, đất nước bị chia thành 3 kỳ với 3 chế độ khách nhau, văn hóa thực hiện chính sách “ ngu để trị”. Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa dẫn đến những thay đổi về tính chất và mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đối tượng và lực lượng của cách mạng Việt Nam. Cơ cấu giai cấp xã hội thay đổi: các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành; xã hội Việt Nam từ xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội lúc bấy giờ là: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam – chủ yếu là nông dân – với giai cấp địa chủ phong kiến. Nó vừa là mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu vừa là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội, nhân dân khổ cực lầm than.
Trong bối cảnh đó, chịu sự chi phối của ý thức hệ giai cấp tư sản của trào lưu dân chủ tư sản phương Tây, bấy giờ đã dấy lên một trào lưu yêu nước mang màu sắc dân chủ tư sản. Đó là phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... do các sỹ phu yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo hay khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài…  khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám. Tìm đường cứu nước, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân đã là dòng chủ lưu xuyên suốt trong ý chí của lớp lớp thanh niên yêu nước. Người theo đuổi con đường dấy binh khởi nghĩa, người theo đuổi canh tân, có người lại sang nước đồng văn đồng chủng cầu học giúp nước. Các phong trào đấu tranh đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp cho thấy ý chí sôi sục của thanh niên đương thời. Thế nhưng, như  Hồ Chí Minh viết trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay: "Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu.”1 Cách mạng Việt Nam đứng trước thử thách lớn của lịch sử.
Xuất thân trong một gia đình nho học, có truyền thống yêu nước trọng nghĩa, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân. Tuổi thơ của Người gắn bó với những năm tháng học tập thi cử, quan trường đầy trắc trở của thân sinh. Cùng cha, Người đã có điều kiện đến cả ba miền đất nước, biết được cuộc sống khó khăn, khổ nhục của người dân dù họ ở xứ Nam Kỳ "bảo hộ" hay Trung Kỳ "thuộc địa". Người gắn bó với Kinh thành Huế nhiều năm, là nơi Người có điều kiện để tìm hiểu, làm quen với cuộc sống quan chức, Hoàng triều, thấu hiểu rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của chốn quan trường mà thân sinh thường nói: "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ"( Làm quan trong đám người nô lệ lại càng nô lệ hơn). Thực dân dày xéo quê hương đất nước, triều đình nhu nhược đớn hèn, nhưng đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công ? làm gì để giành lại độc lập tự do đích thực?.
Yêu cầu khách quan đòi hỏi phải giải quyết là như vậy, nhưng lịch sử phong trào chống Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX trở về trước chưa có lời giải thỏa đáng. Các nhà yêu nước tiến bộ đương thời vẫn bế tắc trước thời điểm bản lề của lịch sử: giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò và đã quá lỗi thời, còn giai cấp tư sản với hệ tư tưởng tư sản cũng đang tỏ ra sự yếu ớt, bất lực, không đủ năng lực để tập hợp toàn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ách áp bức nô dịch của chủ nghĩa thực dân, không biết gắn phong trào yêu nước của dân tộc mình với cuộc đấu tranh của các dân tộc khác có cùng chung kẻ thù xâm lược. Sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc, cho thấy sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối cũng như giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Vượt qua những hạn chế của các bậc tiền bối, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã trăn trở nghiên cứu nhìn nhận sâu sắc về vận mệnh của dân tộc, phân tích và lý giải một cách khoa học đi đến khẳng định con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc. Theo Người, con đường của Hoàng Hoa Thám, vì tư tưởng phong kiến lỗi thời của nó, không thể dẫn tới thắng lợi. Con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu thì chẳng khác gì việc “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn con đường của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là sự “xin giặc rủ lòng thương”. Bởi vậy, mặc dù rất kính mến, trân trọng thế hệ cha anh, nhưng Nguyễn Tất Thành đã không thể đi theo con đường của họ. Người muốn đi tìm một con đường cứu nước mới, một hướng đi riêng. Xác định Pháp là kẻ thù song Nguyễn Tất Thành thấy  có nhiều điểm cần phải học. Người bị cuốn hút bởi các từ “tự do” “bình đẳng” “bác ái” của cách mạng tư sản Pháp và trào lưu cách mạng dân chủ tư sản phương Tây đã tràn vào Việt Nam. Bởi vậy, sau này khi trả lời phỏng vấn một nhà báo nước ngoài, Người đã giải thích quyết định về sự lựa chọn của mình như sau: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái, đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là người Pháp thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy” 2.
Như vậy theo Nguyễn Tất Thành: muốn tìm được con đường cứu nước thì trước hết phải hiểu thật đúng, thật đầy đủ về những kẻ đang cướp nước mình, để xem nhân dân các nước đó họ làm như thế nào mà trở nên độc lập hùng cường rồi về giúp đồng bào mình; tức là, muốn đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để giải phóng cho đồng bào thì trước hết phải hiểu cho được cái gốc rễ, cái bản chất của chủ nghĩa thực dân. Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng những bài học lịch sử của các bậc cha chú và khảo nghiệm trong lý thuyết đến thực tiễn để đi đến nhận thức rằng, mọi cách thức để tiến hành trong nước hay nước ngoài, sang Trung Quốc Nhật Bản đều không thể thành công. Vì vậy cần phải tìm một con đường khác, phải đi ra nước ngoài nhưng theo một hướng khác.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911 tàu Latouche - Tréville rời bến cảng Nhà Rồng mang theo người thanh niên Việt Nam 21 tuổi với khát vọng cháy bỏng là tìm ra con đường cứu nước Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến.
2. Chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang Chủ nghĩa đế quốc. Phong trào cách mạng thế giới phát triển rất mạnh, học thuyết Mác-lênin đã được phổ biến rộng ở nhiều nước có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới đã tác động đến quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.- Hồ Chí Minh
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở các nước thuộc địa.
Sang đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc xung đột, tranh giành quyền lợi lẫn nhau dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ từ năm 1914 – 1918. Cuộc chiến tranh này gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước, đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ. Đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga - 1917 đã trở thành tấm gương cho các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập dân tộc. Từ đây, học thuyết Mác-lênin đã được phổ biến rộng ở nhiều nước và có chuyển biến lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Đó chính là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này tác động đến quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Trong mười năm đầu ra nước ngoài (1911 đến năm 1920), Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Băng qua mọi sóng gió, vượt hết mọi khó khăn, người đã đến với nhiều quốc gia ở khắp Châu Á, Châu Âu, Châu Phi và Châu Mỹ. Nguyễn Tất Thành đến với nước Mỹ xa xôi, đến cả nước Anh giàu có, rồi sau đó Người lại trở về nước Pháp sống và hoạt động giữa lòng thủ đô Paris….Hành trình khảo sát tìm hiểu hòa mình vào cuộc sống đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ rằng cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã từng nổ ra ở Anh, Pháp Mỹ ..là những cuộc cách mạng không đến nơi đên chốn. Từ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản chỉ thay đổi hình thức bóc lột chứ chưa giải phóng hoàn toàn con người. Trong cuốn … Người đã nhận định ràng: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” và “Người lao động ở đâu cũng khổ cực và biết thương yêu nhau” 3.
Như vậy, phân tích tích lịch sử cho thấy: chế độ phong kiến- cái đích của các nhà yêu nước đương thời, chế độ quân chủ lập hiến hay cao hơn là chế độ cộng hòa tư sản đều là những xã hội không mang lại tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Phải đến cách mạng tháng Mười Nga và những ảnh hưởng của nó lan đến nước Pháp Người mới dần sáng tỏ. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại Cách Mạng Pháp “ Tự do, Bình đẳng, Bác ái” và bênh vực các dân tộc thuộc địa. Bởi vậy mà trong Đảng xã hội Pháp lúc này đã diễn ra các hoạt động cách mạng ủng hộ cách mạng tháng Mười, ủng hộ nước Nga Xô Viết và các cuộc tranh luận xung quang vấn đề Quốc tế II, Quốc tế III. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Người chỉ nêu câu hỏi: “quốc tế nào bênh vực cho nhân dân các nước thuộc địa ?”  và Người biết đó là Quốc tế thứ III.
Nếu trước năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành mới nhận thức được sự bế tắc của con đường cứu nước cũ, thì lúc này Anh đã thấy bùng lên một hy vọng về công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường mới. Từ những hoạt động thực tiễn và nhận thức lý luận, Người hiểu rõ hơn về Cách mạng Tháng Mười, về Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã vạch ra cho các dân tộc bị áp bức đấu tranh để tự giải phóng. Người ví “tựa như Người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói có cơm ăn” 4.
Sự kiện tạo nên bước ngoặt chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh là khi Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V. I. Lê-nin vào năm 1920 đăng trên báo “Nhân đạo” của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương đã mang lại cho Người ánh sáng về con đường đúng đắn để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Sau này, khi nhắc đến sự kiện này, Người đã viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III” 5 .
Như vậy, cùng với ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, sự tiếp nhận tư tưởng của V.I. Lê-nin đã dẫn đến sự chuyển biến về chất trong nhận thức cũng như trong hành động của Nguyễn Ái Quốc, quyết định việc Người đứng về phía V.I. Lê-nin và Quốc tế Cộng sản. Tại đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920), khẳng định về sự lựa chọn của mình Nguyễn Ái Quốc đó là quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự kiện đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh: từ người yêu nước trở thành người cộng sản chân chính. Người đã hoàn thành sứ mạng tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Đối với và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam đây là sự khởi đầu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử. Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối, trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, và đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Kỷ niệm 110 năm (5/6/1911-5/6/2021), Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, trong bài viết này, một lần nữa chúng tôi mong muốn làm rõ hơn bối cảnh lịch sử quê hương, dân tộc, thời đại vào thời điểm Người bắt đầu cuộc hành trình. Ngày Người ra đi và sự lý giải cách lựa chọn ấy sẽ tiếp tục là những tiêu đề đặt ra, những câu hỏi tiếp cho nhiều thế hệ mai sau để tìm thông tin đầy đủ hơn. Nhưng mỗi chúng ta có thể khẳng định rằng ngày 5/6/1911 là một biểu tượng thời gian sáng ngời, là sự khởi nguyên đầy sức trẻ của một con người, một cuộc đời, một sự nghiệp đã dấn thân vào lĩnh vực rộng lớn nhất cho hoạt động vì con người. Sự nghiệp đó đã được khẳng định trong tiến trình phát triển của lịch sử Cách mạng Việt Nam./.

Nguyễn Bảo Tuấn
 
 
 
 
.
 
.
 
 
 
 

Thông tin tham quan

Liên kết website